Viêm phổi sơ sinh là tình trạng viêm nhiễm ở nhu mô phổi của trẻ thường gặp ở giai đoạn sơ sinh.Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, sẽ gây ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Yếu tố nguy cơ từ mẹ: mẹ bị sốt lúc sinh, mẹ bị viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục. Có tình trạng ối vỡ sớm. Ối vỡ từ trên 6 – 12 giờ trước sinh, khả năng viêm phổi tỉ lệ lây nhiễm: 33%. Ối vỡ trên 12 – 24 giờ trước sinh khả năng viêm phổi với tỉ lệ lây nhiễm: 51,7%. Ối vỡ trên 24 giờ trở lên: tỉ lệ lây nhiễm 90% trẻ bị viêm phổi. Chuyển dạ kéo dài trên 18 giờ. Trong quá trình mang thai, mẹ bị các bệnh lý nhiễm trùng.
Yếu tố nguy cơ từ con: bé sinh non tháng, tuổi thai càng non tháng, khả năng mắc bệnh càng tăng. Thai nhi có bệnh lý đi kèm, được phát hiện trong lúc mang thai. Bé có tim bẩm sinh, suy giảm miễn dịch. Bé sinh ra bị ngạt, apgar đánh giá dưới 6 điểm. Bé sinh mổ. Yếu tố tác động bên ngoài từ môi trường. Bé sinh ra phải đặt nội khí quản để thở, thở máy. Bé nằm viện lâu ngày. Phòng bé nằm điều trị đông đúc, không khí chật chội.
Quan điểm mới trong điều trị viêm phổi sơ sinh
Hiện nay trong quan điểm điều trị VPSS, hỗ trợ hô hấp tích cực, bằng cách thông đường thở cho trẻ, cung cấp oxy. Điều trị kháng sinh liều cao. Tránh hạ thân nhiệt. Cung cấp dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ và điều trị biến chứng. Giúp cho trẻ điều trị hiệu quả hơn và tránh biến chứng.
Điều trị hỗ trợ hô hấp tích cực: thông đường thở, giải quyết nguyên nhân gây tắc, bằng cách hút đàm nhớt. Cung cấp oxy, luôn luôn giữ cho trẻ nồng độ SpO2 trung bình 89 – 95%, bằng cách cho trẻ thở qua ống thông 2 mũi, thở qua mặt nạ. Trong một số các trường hợp nặng, trẻ non tháng, trẻ không tự thở được phải thở máy hỗ trợ. Vật lý trị liệu, giúp trẻ tống đàm ra bằng cách mát-xa vùng lưng cho trẻ.
Trong VPSS, bệnh cảnh có thể diễn tiến nhanh và nặng, do đó cần thiết phải dùng kháng sinh liều cao, toàn thân bằng đường tiêm tĩnh mạch, thời gian dùng trung bình 7 – 14 ngày. Thuốc kháng sinh có thể phối hợp như sau: Ampicillin + Gentamycin hoặc Amkacin. Ampicillin + Cefotaxim có thể phối hợp thêm Amkacin, nếu tiên lượng nặng. Cần theo dõi sát tình trạng diễn biến của trẻ, một khi không đáp ứng với kháng sinh, cần thiết đổi kháng sinh: Cefepim + Amkacin, các loại kháng sinh thế hệ mới.
Trong quá trình điều trị: luôn luôn giữ ấm cho trẻ, tránh không để xảy ra hạ thân nhiệt; trong trường hợp sốt cao, cần lau mát cho trẻ.
Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, đầy đủ chất điện giải bằng dịch truyền, cho trẻ bú sữa mẹ, tránh không để xảy ra hạ đường huyết, hạ canxi huyết. Điều chỉnh cân bằng kiềm toan, điều trị trào ngược dạ dày thực quản đối với những trẻ viêm phổi hít.
Điều trị cho trẻ những biến chứng có thể xảy ra: tràn khí màng phổi nhiều, đặt dẫn lưu màng phổi để giải áp. Trong trường hợp xẹp phổi, cần vật lý trị liệu hỗ trợ hoặc thở máy để duy trì hô hấp tốt cho trẻ.
Phòng bệnh như thế nào?
VPSS là một căn bệnh nghiêm trọng, nếu không có những biện pháp phòng bệnh hay điều trì bệnh triệt để sẽ ảnh hưởng rất lớn cho sự phát triển của bé, nếu nặng có thể dẫn đến tử vong. Do đó, công tác dự phòng hiện tại và dự phòng xa cho các bà mẹ và cho những trẻ có một vai trò quan trọng, mục tiêu tránh không để xảy ra VPSS và không tái phát viêm phổi ở trẻ.
Công tác dự phòng hiện tại cho trẻ: cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn, bú ngay từ giờ đầu sau sinh, khi sữa mẹ ít, cần tìm hiểu nguyên nhân tại sao sữa mẹ ít. Có thể giúp tiết sữa mẹ nhiều, bằng cách mẹ dùng các loại thuốc kích thích tiết sữa như Meko Lactagil. Kết hợp mẹ ăn uống đầy đủ và ngủ đủ giấc. Khi bé không thể tự bú được có thể đúc từng thìa nhỏ cho trẻ hoặc cho trẻ bú qua sonde. Người chăm sóc cho trẻ tuyệt đối vô trùng, vệ sinh nghiêm ngặt, mang khẩu trang và rửa tay sát trùng khi tiếp xúc với trẻ. Các dụng cụ để chăm sóc trẻ phải được sát trùng, vô trùng. Cách ly với các nguồn lây bệnh khác, khi người chăm sóc bị cảm ho hay có bệnh, tuyệt đối không tiếp xúc với trẻ. Đảm bảo nơi trẻ nằm, phải thông thoáng, có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Vào buổi sáng (7 – 8 giờ) hàng ngày, cho trẻ ra tắm nắng, với thời gian 30 – 40 phút. Khi trẻ ra tháng, cần tiêm chủng cho trẻ theo lịch tiêm chủng quốc gia.
Dự phòng xa đối với các bà mẹ: nhất thiết phải khám thai định kỳ, làm xét nghiệm trong thời gian mang, với một số các bệnh lý nhiễm trùng, liên quan đến bào thai như: xét nghiệm Rubella, CMV, Toxoplasma, Chlamydia, giang mai, HIV… Quá trình mang thai, dinh dưỡng phải chú trọng, ăn uống đầy đủ, có thể uống thêm canxi và viên sắt, acid folic. Nhằm giúp thai phát triển tốt và tăng cân đều. Quá trình chuyển dạ sinh, tránh không cho ối vỡ sớm. Một khi ối vỡ trên 6 giờ trở đi, cần thiết xúc tiến cho sinh, tránh chuyển dạ kéo dài, bằng biện pháp tiên lượng cuộc sinh, sinh ngả âm đạo hay sinh mổ. Khi trẻ sinh ra có dấu hiệu ngạt, cần hồi sức tích cực và dùng thuốc kháng sinh dự phòng cho trẻ hoặc trẻ sinh ra có tình trạng nước ối xấu, như nước ối xanh, nhất thiết phải dùng kháng sinh toàn thân cho trẻ.
TH