Ung thư xương gây đau do tế bào ung thư nhân lên trong tổ chức xương. Một cấu trúc xương bình thường có một số khoang nhất định, khi khối ung thư lớn lên gây chèn ép trực tiếp lên các dây thần kinh trong xương và gây đau. Bệnh ung thư là cho mô xương cũng trở nên yếu hơn, mềm hơn.
Các yếu tố này gây ảnh hưởng đến dây thần kinh và làm đau hơn nữa do bệnh lý ngay tại cấu trúc xương. Ung thư làm cho hiện tượng đau rất nặng nề, thường mức đau (8-9-10 điểm). Có hai biện pháp điều trị đau do ung thư xương là xạ trị và dùng thuốc. Tuy nhiên, không phải chỉ là hai biện pháp duy nhất, mà việc sử dụng các phương pháp chăm sóc giảm nhẹ khác cũng góp phần làm cho điều trị đau nói chung hiệu quả hơn như thư giãn, thôi miên, thiền…
2. Xạ trị cho đau xương
Nếu một khối u ở vị trí khác trong cơ thể đã di căn đến xương và gây đau như ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến, lúc này xạ trị là liệu pháp điều trị đau rất hiệu quả. Xạ trị giúp tiêu diệt các tế bào ung thư đang lớn lên trong xương làm cho khối u nhỏ đi và giảm đau. Tiếp theo là xương sẽ được tái cấu trúc lại để chống lại sự xâm chiếm của khối u trước đó, Như vậy, xạ trị có hai tác dụng là làm cho xương vững hơn và giảm đau. Thông thường xạ trị đối với loại đau này chỉ cần làm một đến hai lần, bệnh nhân không cần phải nhập viện.
Có hai loại xạ trị: bằng chiếu tia lên tổ chức xương hoặc dùng thuốc dạng dược chất phóng xạ.
2.1. Xạ trị gamma và xạ trị gia tốc thẳng là các phương pháp được dùng phổ biến hiện nay. Gamma quay có thể định vị chính xác khối u rất nhỏ và vùng tổn thương sẽ được nhận liều bức xạ cao nhất nhưng các vùng tổ chức lành xung quanh ít bị ảnh hưởng nhất.
Xạ trị gia tốc thẳng phát ra tia dạng electron và proton, có tác dụng diệt tế bào cao và ít tác dụng phụ. Tùy vị trí khối u mà người ta chọn chùm tia nào.
Hai loại xạ trị trên được dùng bởi máy đặc biệt, phát ra các tia, chùm tia tới vùng có tế bào ung thư cư trú.
2.2. Dược chất phóng xạ là một lựa chọn tối ưu cho việc kiểm soát đau do ung thư di căn xương. Samarium- 153, đã được FDA công nhận lần đầu vào năm 1997.
Samarium-153 EDTMP là một dược chất phóng xạ, cấu tạo là một chất phóng xạ samarium -153 được gắn với một chất nền dạng protein giúp cho việc gắn vào xương được dễ dàng. Hợp chất phóng xạ này có đặc tính là khi tiêm vào trong tĩnh mạch, sẽ di chuyển đến vùng xương bị di căn. Chất phóng xạ này sẽ phá hủy ADN cấu thành nên tế bào ung thư hay tế bào gần giống với tế bào ung thư gây chết tế bào, giúp giảm đau do giảm kích thước khối ung thư trong xương. Hợp chất này được Bác sĩ chỉ định truyền vào trong máu tĩnh mạch trong thời gian ngắn khoảng 1 phút, liều thuốc tính dựa trên trọng lượng cơ thể.
Đây là chất phóng xạ, nên việc dùng thuốc có chỉ định nghiêm ngặt về an toàn y khoa cũng như môi trường xung quanh.
Bệnh nhân có tình trạng đau do di căn xương chịu gánh nặng về tâm lý do tình trạng tàn tật và đau phức hợp khó trị. Vì vậy, trước bất kỳ tình trạng ung thư nào đã gây di căn xương, hiện tượng đau cần được phát hiện sớm, can thiệp điều trị đau sớm để nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, dù ở bất kỳ lứa tuổi nào hay giai đoạn nào của bệnh.
3. Thuốc điều trị đau xương
Để điều trị đau do di căn xương thì cần phải tiến hành một đợt xạ trị trong vài ngày, thậm chí 2 tuần mới có hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian này, việc dùng thuốc để giảm đau phổi hợp là vô cùng cần thiết. Dùng loại thuốc nào, tùy thuộc vào mức độ đau Bác sĩ đánh giá để kê toa cho phù hợp.
Có 3 nhóm thuốc hay được dùng. Đau ở mức nhẹ thì các thuốc giảm đau thông thường đã phát huy tác dụng. Đau ở mức trầm trọng thì thuốc lựa chọn sẽ là thuốc morphin và họ giống morphin. Khi mà xạ trị đã có hiệu quả giảm đau thì có thể giảm dần liều thuốc giảm đau. Tuy nhiên, các thuốc điều trị đau do ung thư hay gây táo bón, chính điều này gây khó chịu và cảm giác không thoải mái cho người bệnh. Vì vậy, cần điều trị táo bón ngay từ khi chúng mới xuất hiện bằng việc dùng thuốc giảm đau họ morphin với các thuốc điều trị táo bón ngay từ đầu.
Thuốc chống viêm, giảm phù nề đặc biệt có hiệu quả trong đau do ung thư di căn xương do bất kỳ sự phù nề nào các mô, tổ chức đều làm cho đau thêm trầm trọng. Vì vậy, nhóm thuốc này còn giúp trì hoãn hay loại bỏ sự phá hủy cấu trúc xương mà khối ung thư gây nên. Ngoài ra, một loại thuốc có tác dụng giúp giảm đau trong trường hợp ung thu xương thứ phát (u từ một nơi khác di căn tới) do giúp tái cấu trúc xương sau khi khối u đã giảm kích thước do xạ trị thuộc nhóm bisphosphonates. Nhóm thuốc này cần được truyền tại giường, trong bệnh viện.
4. Đối mặt với đau
Không chỉ đau gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà đau trong ung thư xương còn bị ảnh hưởng của các tác dụng phụ của việc điều trị do chính thuốc điều trị ung thư và xạ trị gây nên. Kiểm soát đau giúp bệnh nhân hợp tác và tuân thủ phác đồ điều trị ung thư đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống. Ở bất kỳ giai đoạn bệnh nào, bệnh nhân cũng có nguy cơ đối mặt với sự mệt mỏi, yếu đuối, sự chán ăn và trầm cảm. Vì vậy, chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân, thay đổi nhận thức về đau, chăm sóc tâm lý cho bệnh nhân ung thư ở bất kỳ giai đoạn nào là vô cùng cần thiết.
Bác sĩ Bùi Hạnh Tâm
Khoa Chăm sóc Giảm nhẹ
Bệnh viện Đại học Y dược, Thành phố Hồ Chí Minh