Khi người bệnh được chẩn đoán dương tính với HIV, ngoài xét nghiệm CD4, người bệnh sẽ được làm xét nghiệm đo tải lượng virus HIV trong máu, giúp đánh giá quá trình điều trị.
Xét nghiệm tải lượng virus HIV là gì?
Xét nghiệm tải lượng virus HIV là xét nghiệm được dùng để đo lượng virus HIV có trong một milimit máu,bằng các phương pháp xét nghiệm như:
-Xét nghiệm PCR Reverse-transcriptase polymerase
-Xét nghiệm nhánh DNA (bDNA)
-Xét nghiệm khuếch đại trình tự axit nucleic (NASBA)
Các trường hợp cần tiến hành xét nghiệm?
Các trường hợp dưới đây cần được tiến hành xét nghiệm:
-Người bệnh có biểu hiện thất bại về miễn dịch hoặc thất bại về lâm sàng, bao gồm tiêu chuẩn dưới đây:
+Đang điều trị bằng thuốc kháng HIV 6 tháng trở lên
+Có sự tuân thủ điều trị tốt nhưng có thất bại về miễn dịch hoặc lâm sàng
–Người bệnh có các yếu tố nguy cơ gây thất bại điều trị,bao gồm tiêu chuẩn dưới đây:
+Đang điều trị bằng thuốc kháng HIV 6 tháng trở lên
+Có ít nhất một trong các yếu tố nguy cơ gây thất bại điều tị bằng thuốc
-Người bệnh làm xét nghiệm thường quy sau bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng HIV,tùy trường hợp có thể làm xét nghiệm sau 3 tháng,6 tháng hoặc 12 tháng định kì làm xét nghiệm 1 lần.
Kết quả và định hướng xử trí của xét nghiệm
Thông thường xét nghiệm tải lượng virus sẽ được báo cáo kết quả dưới dạng số liệu bản sao HIV (copies/mL) trong máu. Tải lượng virus HIV có thể dao động từ không thể phát hiện (dưới mức phát hiện các xét nghiệm kiểm định hiện hành) đến hàng chục triệu con. Việc tiến hành xét nghiệm tải lượng virus chỉ nên dùng cố định một trong ba phương pháp xét nghiệm kể trên, để tránh những sai sót không đáng có. Ảnh hưởng của việc tiêm ngừa vacxin,nhiễm trùng tới xét nghiệm tải lượng virus có thể khiến cho tải lượng virus gia tăng tạm thời. Trong trường hợp này tốt nhất tránh làm xét nghiệm tải lượng virus ít nhất sau 1 tháng tiêm ngừa hay có bệnh nhiễm trùng.
Kết quả xét nghiệm tải lượng virus HIV được chia ra các trường hợp xử trí:
-Tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện đến 1000 bản sao/ml: Người bệnh đáp ứng tốt với phác đồ điều trị, nguy cơ chuyển sang giai đoạn AIDS rất thấp,và nguy cơ kháng thuốc rất thấp.
+Tiếp tục phác đồ điều trị bằng thuốc kháng HIV hiện tại. Đánh giá và hỗ trợ điều trị trong tất cả các lần tái khám và phát thuốc
+Theo dõi diễn biến lâm sàng trong các lần tái khám và xét nghiệm miễn dịch CD4 thường quy
-Tải lượng virus từ 1000 bản sao/mL đến 5000 bản sao/mL : Người bệnh có biểu hiện không đáp ứng với phác đồ điều trị
+Đánh giá việc tuân thủ điều trị tốt hay không? Đánh giá tương tác thuốc với cơ thể người bệnh
+Điều trị các nhiễm trùng cơ hội nếu có
+Xét nghiệm lại sau 1-3 tháng điều trị tích cực
+Thực hiện các xét nghiệm chuyên sâu giải trình tự gen phát hiện kháng thuốc (nếu có điều kiện). Chuyển sang phác đồ ARV bậc 2 nếu có kết quả kháng thuốc
-Tải lượng virus > 5000 bản sao/ml: người bệnh có biểu hiện thất bại điều trị về virus,cần đánh giá việc tuân thủ điều tị tốt hay không?
+Nếu điều trị tốt cần hội chẩn để chuyển sang điều trị thuốc kháng Hiv phác đồ 2.
+Nếu chưa tuân thủ tốt, cần làm xét nghiệm lại sau 1-3 tháng có theo dõi điều trị tích cực:
Nếu kết quả xét nghiệm HIV lần 2> 5000 bản sao/ml và người bệnh tuân thủ tốt: Coi thất bại điều tị và chuyển sang phác đồ thuốc kháng HIV bậc 2
Nếu kết quả tải lượng lần 2 < 5000 bản sao/ ml thì xử trí như mục tải lượng từ 1000 – 5000 bản sao/ml.
Việc làm xét nghiệm tải lượng virus rất quan trọng trong quá trình điều trị,do đó người bệnh không nên chủ quan,cần thăm khám và kiểm tra định kì theo chỉ định của bác sĩ. Đồng thời trong quá trình dùng thuốc,cần tuyệt đối tuân thủ việc uống thuốc đúng giờ,theo dõi nhiễm trùng ,tránh các đồ uống kích thích,có hại cho cơ thể, có lối sống khoa học,lành mạnh sẽ giúp cho người bệnh có thể kéo dài được tuổi thọ như người bình thường.
Mọi vấn đề về sức khỏe, vui lòng gọi đến tổng đài 19006237 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.