Bệnh máu trắng- Bệnh bạch cầu là một sự gia tăng bất thường về số lượng các màu trắng máu tế bào. Các tế bào máu trắng lấn các yếu tố tế bào máu khác như tế bào hồng cầu và tiểu cầu. Các tế bào máu trắng cao là chưa trưởng thành và không hoạt động đúng.
Bệnh bạch cầu – thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cho “trắng” và “máu” – thường được coi là một căn bệnh của trẻ em, nhưng nó thực sự ảnh hưởng nhiều hơn người lớn. Nó được phổ biến hơn ở nam giới hơn so với phụ nữ và người da trắng trong hơn người Mỹ gốc Phi. Sẽ có 47.150 bệnh nhân mới được chẩn đoán với tất cả các dạng của bệnh bạch cầu ở Hoa Kỳ vào năm 2012 với 23.540 trường hợp tử vong do bệnh bạch cầu vào năm 2012.
Máu có ba loại tế bào: tế bào máu trắng chống nhiễm trùng, các tế bào máu đỏ mang oxy, và tiểu cầu giúp cho việc đông máu, tất cả lơ lửng trong huyết tương lỏng. Mỗi ngày, hàng trăm tỷ tế bào máu mới được sản xuất trong tủy xương – phần lớn là các tế bào hồng cầu.Tuy nhiên, ở những người bị bệnh bạch cầu, cơ thể bắt đầu sản xuất các tế bào màu trắng nhiều hơn cần thiết. Nhiều người trong số các tế bào màu trắng thêm không trưởng thành bình thường, nhưng họ có xu hướng để sống tốt hơn tuổi thọ bình thường của họ.
Mặc dù số lượng lớn của họ, các tế bào bạch cầu không thể chống lại nhiễm trùng như tế bào máu trắng bình thường. Như họ tích lũy, họ can thiệp với các chức năng cơ quan quan trọng, bao gồm cả việc sản xuất các tế bào máu khỏe mạnh.Cuối cùng, cơ thể không có đủ tế bào hồng cầu để cung cấp oxy, đủ tiểu cầu để đảm bảo đông máu thích hợp, hoặc đủ các tế bào máu trắng bình thường để chống nhiễm trùng. Điều này dẫn đến người bị bệnh bạch cầu thiếu máu cũng như làm tăng nguy cơ bị bầm tím, chảy máu và nhiễm trùng.
Trường hợp bệnh bạch cầu được phân loại là cấp tính hoặc mãn tính. Các tế bào trong bệnh bạch cầu cấp tính bắt đầu nhân trước khi họ phát triển vượt ra ngoài giai đoạn chưa trưởng thành của họ. Bệnh bạch cầu mạn tính tiến triển chậm hơn, với các tế bào bạch cầu phát triển để trưởng thành đầy đủ. Bệnh bạch cầu là tiếp tục phân loại theo các loại tế bào máu trắng có liên quan, phổ biến nhất là dòng tủy hoặc bạch huyết. Dưới kính hiển vi, hai loại chính của các tế bào máu trắng có thể dễ dàng phân biệt các tế bào dòng tủy chứa các hạt nhỏ hoặc hạt; tế bào bạch huyết thường không.
1.Nguyên nhân bệnh bạch cầu
Không ai biết chính xác những gì gây ra bệnh bạch cầu. Một số bất thường nhiễm sắc thể có liên quan đến bệnh bạch cầu, nhưng họ không gây ra nó. Ví dụ, hầu như tất cả những người có CML và một số với tất cả có một nhiễm sắc thể bất thường được gọi là nhiễm sắc thể Philadelphia trong các tế bào máu trắng và tủy xương. Cũng như các loại bệnh bạch cầu khác, các bất thường nhiễm sắc thể là một bất thường có được, nó được thừa hưởng không cũng không truyền lại cho con cái của mình.
Rối loạn di truyền liên quan đến bệnh bạch cầu myeloid cấp tính bao gồm hội chứng Down , hội chứng Bloom , Fanconi thiếu máu , rối loạn hoặc suy giảm miễn dịch như hội chứng Wiskott-Aldrich và thất điều-telangectasia. Ngoài ra, ít nhất một virus trong cùng một gia đình như virus suy giảm miễn dịch ở người ( HIV ) đã được liên kết với một dạng hiếm gặp của bệnh. Đây là virus HTLV-1.
Yếu tố môi trường dường như ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu.Hút thuốc lá dễ bị bệnh bạch cầu nhất định. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng việc tiếp xúc kéo dài với bức xạ , hóa chất khác nhau trong nhà và làm việc môi trường – như benzen có chứa sản phẩm, sản phẩm dầu mỏ – và bức xạ không ion hóa có liên quan đến bệnh bạch cầu.
Bệnh bạch cầu cũng là một biến chứng hiếm gặp của hóa trị và xạ trị dùng để điều trị bệnh ung thư khác. Nguy cơ mắc bệnh bạch cầu phụ thuộc vào loại hóa trị thuốcsử dụng. Nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu cấp tính là lớn nhất trong những người đã nhận được cả hai hóa trị và xạ. Yếu tố này thường được kết hợp với điều trị trước khi cho bệnh ung thư vú , u lympho Hodgkin và không Hodgkin lymphoma .Ung thư trước khác liên quan đến sự phát triển của bệnh bạch cầu cấp là u tủy,ung thư tinh hoàn , và ung thư.
Bức xạ ion hóa như khi tiếp xúc với vụ nổ hạt nhân, uranium và urani tiếp xúc với bụi và radon có liên quan với sự phát triển của bệnh bạch cầu.
Tiền sử gia đình là một yếu tố nguy cơ cho bệnh bạch cầu là tốt. Ví dụ, nếu một đôi giống hệt nhau phát triển tất cả có một cơ hội 20% các đôi khác sẽ phát triển tất cả trong vòng một năm. Sau một năm, nguy cơ sau đó rơi xuống với nguy cơ tương tự như cặp song sinh không giống nhau, nhưng vẫn còn năm lần so với dân số nói chung.
2. Triệu chứng của bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng)
Triệu chứng của bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng) thay đổi tùy theo số lượng bạch cầu trong máu và tùy theo nơi mà các bạch cầu ác tính tụ tập. Các dấu hiệu này cũng không tiêu biểu cho ung thư máu (bệnh máu trắng). Sau đây là các dấu hiệu thường thấy:
- Sốt, đau đầu, đau khớp do sự chèn ép trong tủy
- Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm.
- Mệt mỏi, yếu sức, da đổi thành màu trắng nhợt do thiếu hồng cầu
- Hay bị nhiễm trùng do bạch cầu không thực hiện được chức năng chống nhiễm khuẩn
- Chảy máu chân/nướu răng do giảm khả năng làm đông máu
- Dễ bầm tím và dễ chảy máu.
- Biếng ăn, sút cân.
- Ra mồ hôi về ban đêm ở bệnh nhân là nữ
- Sưng nề bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng.
- Đau khớp và xương.
3. Điều trị
Bệnh cần được các bác sĩ chuyên môn nhiều ngành như huyết học, u bướu hóa xạ trị chăm sóc, điều trị. Mục đích điều trị là đưa bệnh tới tình trạng không còn triệu chứng, bệnh nhân bình phục với tế bào máu và tủy xương lành mạnh như trước. Phương thức điều trị tùy thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư, giai đoạn bệnh, tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Các phương pháp trị liệu gồm có:
a. Hóa trị (Chemotherapy)
Hóa trị dùng các dược phẩm khác nhau bằng cách uống, chích vào tĩnh mạch hoặc vào tủy xương để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị rất công hiệu và được áp dụng cho đa số bệnh nhân. Có nhiều loại thuốc và người bệnh có thể chỉ uống một thứ hoặc phối hợp hai ba thuốc. Tuy nhiên, hóa trị cũng ảnh hưởng tới các tế bào bình thường và gây ra một số tác dụng phụ như rụng tóc, lở môi miệng, nôn mửa, tiêu chẩy, ăn mất ngon, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn sinh sản.
b. Xạ trị (Radiation therapy)
Với một máy phát xạ lớn, các tia phóng xạ được đưa vào các bộ phận có nhiều bạch cầu ung thư tụ tập, như lá lách, não bộ để tiêu diệt chúng. Tác dụng phụ gồm có: mệt mỏi, viêm đau nơi da nhận tia xạ.
c. Sinh trị liệu (Biological Therapy)
Còn gọi là miễn dịch trị liệu, sinh trị liệu sử dụng kháng thể để hủy hoại tế bào ung thư. Kháng thể là những chất đạm đặc biệt được cơ thể sản xuất khi có một vật lạ xâm nhập. Kháng thể này sẽ phát hiện và tiêu diệt các vật lạ đó khi chúng trở lại cơ thể.
Sinh trị liệu được thực hiện qua hai phương thức:
- Gây miễn dịch để kích thích, huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư
- Cho bệnh nhân dùng các kháng thể đặc biệt được sản xuất trong phòng thí nghiệm để trị ung thư.
d. Ghép tế bào gốc (Stem Cell Transplant)
Ghép tủy là lấy tủy xương (thường là ở xương hông) có tế bào gốc của một người cho khỏe mạnh rồi đưa vào người bệnh với mục đích tái tạo tế bào máu và hệ thống miễn dịch. Tế bào gốc từ máu, cuống rốn thai nhi và nhau thai cũng được dùng để điều trị một vài loại ung thư máu.
Trong bệnh ung thư máu (bệnh máu trắng), tế bào gốc của tủy bị lỗi, sản xuất ra quá nhiều bạch cầu non yếu nhưng ác tính, gây trở ngại cho sự tăng sinh của tế bào bình thường ở máu.
Ghép tủy không hoàn toàn bảo đảm tránh được sự tái phát của ung thư nhưng có thể tăng khả năng trị bệnh và kéo dài đời sống người bệnh.
4. Phòng ngừa
Một số bệnh ung thư có thể phòng ngừa bằng cách giảm thiểu tiếp xúc với rủi ro gây ung thư (như tránh khói thuốc lá), bằng nếp sống lành mạnh (không hút thuốc lá, uống nhiều rượu…), bằng dinh dưỡng đầy đủ hợp lý. Riêng với ung thư bạch cầu thì không có các rủi ro rõ rệt để phòng tránh.
Vì vậy người thường xuyên tiếp xúc với phóng xạ, hóa chất độc mà có những dấu hiệu bệnh bất thường đều nên đi kiểm tra sức khỏe theo định kỳ để sớm khám phá ra bệnh.
Mọi vấn đề về sức khỏe, vui lòng gọi đến tổng đài 19006237 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.